Đô thị - nơi chứng
kiến những bước phát triển vượt bậc của xã hội, thời đại, nơi hào nhoáng với
những ánh đèn rực rỡ, rộn rã với những âm thanh náo nhiệt, khắc khoải với những
ánh mắt hy vọng và lắng đọng với biết bao vòng tay trìu mến. Lẩn khuất đâu đó giữa
cái bầu không khí đặc những làn khói trắng, và khi màn đêm buông xuống, những
tâm hồn cô độc vẫn luôn hướng về nhau trong vô định. Sự sẻ chia, đồng cảm dường
như là điều quý giá nhất, khó sở hữu nhất khi mà con người càng ngày cảm nhận
rõ ràng hơn cả sự vô cảm của những người xung quanh mình... Tôi có
quyền hủy hoại bản thân là một hành trình không mấy dễ dàng để tìm lại
những giá trị cơ bản, vốn có của con người; là tiếng nói đồng cảm của tác giả
Kim Young Ha trước những vấn đề còn nhức nhối của xã hội và hơn hết, nó kêu gọi
sự quan tâm lẫn nhau giữa con người với con người. Với cách kể chuyện duyên
dáng và thông minh, Kim Young Ha đã viết nên một cuốn sách về tình yêu và cái
chết mang đậm phong cách Seoul thập niên 1990 đầy mê hoặc và say đắm...
Tóm tắt nội dung
Câu chuyện trong Tôi có quyền hủy hoại bản thân được dẫn dắt
bởi một người không tên, như một bóng ma ám ảnh theo những cư dân bị tổn thương
và lạc lối của cuộc sống đô thị, mời chào họ tìm sự an bình nơi cái chết... C
và K trong cuốn tiểu thuyết của Kim Young Ha là hai anh em và cùng đem lòng yêu
một cô gái tên Se Yeon - cô gái Hồng Kông từng làm nghề ma nơ canh kỳ lạ, một
nữ nghệ sĩ trình diễn chưa một lần cho phép ai được ghi hình. Dòng chảy cuộc
đời họ có thể giao nhau, có thể không, nhưng sự tồn tại của họ trong suốt các
trang sách này đều hằn lên rất rõ nét một nỗi thống khổ tột cùng...
Bằng chất văn chương
mơ màng và mang đậm ngôn ngữ điện ảnh, giọng điệu pha trộn giữa sự gợi tình
cùng nét uể oải đặc trưng của đời sống đô thị, Kim Young Ha đã viết về cuộc vật
lộn trong vô vọng để tìm kiếm mối liên hệ của từng cá nhân và thế giới nơi họ
sống, về nỗi tuyệt vọng dưới hình hài sự chán chường, sự giải thoát được sinh
ra từ hủy diệt, về cái chết trở thành một phần của sự sống... Để rồi đến khi
tựu hình, Tôi có quyền hủy hoại bản thân thực sự là một cuốn
sách hư cấu không mấy dễ đọc, không mấy dễ chịu, nhưng đầy sức ám ảnh với những
ai đang kiếm tìm điều gì đó nằm bên ngoài ánh sáng và niềm hân hoan đơn
thuần...
Cốt truyện khá đơn giản:
một gã hành nghề tư vấn tâm lý kể lại câu chuyện rắc rối tâm thần-tình cảm của
một khách hàng của gã. Song, sự chuyển hóa thành ý tưởng đã biến nó thành một
câu chuyện phức tạp có thể gọi được là đẹp đẽ, lao một cú ngoặt ghê tay nhưng
dẫu sao cũng đã có tiền lệ: gã tư vấn là một kiểu “thiên tài tội lỗi”, với cái
tư tưởng kỳ quái - “Thông qua việc này tôi cố gắng biến mình trở nên giống
thần thánh hơn. Ở thời đại ngày nay, chỉ có hai con đường trở thành thần thánh:
thông qua sáng tạo hoặc là sát nhân” (tr.20). Chỉ cần bỏ đi chữ “hoặc là”.
Công việc của nhân vật kể chuyện xưng “Tôi”, theo lời gã, là tìm kiếm
những “khách hàng” tuyệt vọng, những người gã nhận thấy họ “không còn
nơi nào khác để đi. Họ chẳng cần gặp ai mà cũng chẳng có ai để gặp”
(tr.15). Và gã sẽ khơi gợi ở họ cái điều gã gọi là “những khát khao sâu kín”,
nói thẳng ra là xung năng chết, vẽ ra cho họ các lựa chọn kiểu cách tự sát,
hướng dẫn họ thực hiện từng bước một, và sẽ là kẻ tiễn đưa cuối cùng duy nhất
trong phút lâm chung của khách; sau đó “tôi sẽ đi du lịch, và sẽ lấy câu
chuyện cùng với vị khách đó làm nguyên liệu để viết lách sau khi đi du lịch về”
(tr.20), tức là kết thúc một đoạn hoàn chỉnh trong quá trình “sáng tạo”.
Đó là key-word của câu
chuyện này: kẻ sáng tạo trình bày tác phẩm xen kẽ trạng thái sáng tác của gã;
khởi đầu câu chuyện bằng ấn tượng về bức họa kinh điển “Cái chết của Marat” của
Jacques-Louis David, kết thúc bằng cảm hứng từ một chi tiết trong một bức danh
họa khác - “Cái chết của Sardanapalus” của Eugène Delacroix, cả hai gắn với
hứng thú của người kể chuyện khi ngắm nhìn cái chết, ngắm nhìn như nhìn trong
gương hình ảnh “nội tâm của kẻ bày ra cái chết” (tr.171); giữa hai đầu
và cuối đó, là “tiểu thuyết” về năm nhân vật gồm hai khách hàng của
người kể chuyện, sẽ hoàn tất hợp đồng, và ba khách hàng tiềm năng rõ rệt, xét
theo tiêu chí mà gã đưa ra, như đã nói ở trên.
Không phải sự chết theo
mọi nghĩa thông thường, điều gã làm là sáng tạo cái chết.
Một nhân vật trong tiểu
thuyết, tên “K.”, dường như được kể để làm chứng cho sự cần thiết cũng như tính
mục đích của việc sáng tạo mà người kể chuyện theo đuổi.
K. là em trai của nhân
vật nghệ sĩ video-art tên “C.”. Hành nghề lái taxi “đạn” (taxi tốc hành sẵn
sàng phạm luật giao thông), K. rơi vào một cơn sốc trầm uất lúc cảm thấy cô
tình nhân của mình đã bỏ đi cùng C. Tay lái trẻ này uống rượu, rồi phóng hết
tốc lực hàng trăm cây số trong trạng thái lơ mơ mất ngủ… Anh ta đã đến tình
trạng không còn nơi để đi không còn ai để gặp. Và dù đã cố ý phó mình cho xa
lộ, anh ta vẫn chẳng đâm vào bất cứ thứ gì; không chết được. Hàm ý của chuyện
này khá mập mờ nhưng dễ thấy: K. không chết được vì chưa thành khách hàng của
kẻ sáng tạo cái chết. Nhân vật C. cũng rơi vào cảnh bế tắc đầy hứa hẹn kiểu đó.
Tuy nhiên, nhân vật
chính của cuốn sách này vẫn là gã tư vấn-người kể chuyện: gã kể, khi gặp được
một khách hàng “có khả năng khơi gợi sự sáng tạo ở tôi”, thì trong lúc
trò chuyện, “Tôi dùng vô số câu chuyện để che đậy con người thật của mình”
(tr.18-19), và “Tôi đã học được từ hồi còn rất nhỏ rằng nếu bịa ra một câu
chuyện thì sẽ dễ làm rõ một luận điểm hơn. … Dẫu sao thì thế giới này cũng đã
đầy dẫy những chuyện hư cấu rồi” (tr.78). Những lời tự tin lãnh đạm, cái
giọng điệu ấy, dường như ngầm nhắc gã có cái “luận điểm” nào đấy mà các câu
chuyện thân phận của khách hàng giúp “làm rõ”.
Trò chơi hầu như minh
bạch về văn bản như vậy hẳn sẽ được những ai chuộng “hậu hiện đại” ưa thích.
Trong đó các nhân vật và sự kiện, các thành tố có “tính liên văn bản” như tình
tiết về tranh của J. L. David, Gustav Klimt, Delacroix, hay một vài tên tuổi tác
phẩm âm nhạc jazz hay pop, hay thơ, một bản giới thiệu du lịch Paris - tất cả
tạo nên một tập từ vựng đa bội về nguồn gốc và bản sắc (gã tư vấn nói rằng cuộc
đời các nhân vật-khách hàng là những file lưu trong máy tính của gã) nhưng lại
bị định hướng vào việc cấu thành ý tưởng của người kể chuyện.
Cái trò chơi này gợi ý
rõ ràng người kể chuyện này muốn kể về gã: bởi, gã kể rằng những file chuyện
đời của khách hàng gã đã rút ra, biên tập thành tiểu thuyết và gửi đến nhà xuất
bản không kèm theo tên tuổi thật của gã cũng như bất kỳ đòi hỏi quyền lợi tác
giả nào.
Rốt cuộc, các trình
thuật về số phận các nhân vật chỉ là để kể về hành vi “sáng tạo” của người kể
chuyện, trong lúc, như một lĩnh xướng giọng trầm, người kể tự kể về mình. Họ là
một kiểu tiếng vọng của nhau. Hai bên tạo nên khoảng cách.
Khoảng cách đó là nơi né
tránh của người kể. Vì chủ đề của gã là khuyến khích người ta tự giết chính
người ta, tự sát, một cách không thể gọi là hư cấu được.
Cái chết, ngay cả trong
văn chương và nghệ thuật, là một trong vài chủ đề hiếm hoi không thể lảng tránh
sự quy chiếu. Bởi như Émile Chartier từng viết : đó “có lẽ là thực tế lớn nhất
của con người, nằm ở chỗ họ không còn tồn tại nữa” (Émile Chartier, tr.221, NXB
Trẻ 2013).
Giọng văn khá lạnh lùng,
có sắc thái “tối thiểu” của câu chuyện này giấu đằng sau vẻ dửng dưng của nó,
của những nhân vật của nó, một phản ứng thẩm mỹ quyết liệt với chủ đề cái chết
- gã tư vấn bình luận về bức “Cái chết của Sardanapalus” rằng gã đồng cảm với
điều mà gã thấy là hình ảnh ông vua của Babylon bình thản “thưởng lãm”
cảnh giết chóc mà ông ta bày ra; gã cho rằng: “Nếu kẻ vẽ cảnh này là một tay
họa sĩ hạng ba nào đó thì chắc gã sẽ họa lên hình vị hoàng đế với hai tay ôm
đầu nhăn nhó, đau khổ” (tr.171).
Chẳng có một “tay họa
sĩ hạng ba nào đó” ứng vào đây. Đơn giản đó là một ám chỉ công kích những
cảm nhận thông thường. Và xa hơn nữa, đừng ngại một suy luận quy chiếu, sự công
kích đó hẳn là phản bác những ồn ào hờ hững đối với nạn tự tử - điều mà truyền
thông luôn đưa lên như một vấn nạn, nhất là từ sau khi Hàn Quốc bước vào hàng
ngũ các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới.
Gã tư vấn chết chóc lập
một từ vựng khác về cái chết: “bình thản nhưng đau đớn, đầy căm hận nhưng
chan chứa cảm thông/thể hiện tất cả những cảm xúc đối lập trong nội tâm
con người” (tr.8); “đớn đau… mang lại khoái cảm thầm kín” (tr.14); “những
dục vọng vùi sâu trong vô thức” (tr.15); “thiết kế cái kết của đời mình
với một vẻ đẹp (thơ ca)” (tr.21); hay về màu sắc của cảnh tàn sát
trong tranh thì “tươi sáng … rỡ ràng” (tr.170); v.v…
Toàn bộ cái tập từ vựng
ấy, cho đến cảnh sau cùng khi gã chúc nữ khách hàng xinh đẹp có “một chuyến
đi tốt đẹp” (tr.173) trong cái bồn tắm đầy nước đã loang hồng, những từ ngữ
ấy toát lên điều rất quen (nhưng khá ít sáo mòn, do vẻ đẹp văn chương của người
kể!), mà chung quy là nhu cầu cảm thông, thông hiểu, yêu và được yêu chân thực
mạnh mẽ - và chẳng nên đánh giá thấp cái thông điệp ngầm ẩn đó, bởi lẽ những
con người đòi hỏi điều ấy lại là những tính cách bất kham, tự do khôn lường,
đòi hỏi trưng ra hay tìm kiếm một bản sắc cá biệt đến mức lý tưởng… mà nhìn
chung xã hội cảm thấy khó xử, khó quan tâm cho đủ.
“Sáng tạo” thì nhìn
chung là một từ ngữ sáo mòn, song người kể đã quả thực gây được bất ngờ khi gắn
nó vào cái “quyền hủy hoại bản thân” để tạo ra một trường nghĩa khác.
Thông tin tác giả
Kim Young Ha là một nhà văn nổi tiếng của Hàn Quốc, tác phẩm của anh đã đoạt
nhiều giải thưởng trong nước, được yêu thích, tìm đọc ở Hàn Quốc và hàng chục
nước trên thế giới. Kim Young Ha được tạp chí Moonji đánh giá là một trong
những tác giả trẻ dẫn dắt nền văn học Hàn Quốc trong thế kỷ 21.
Thông tin thêm
Tôi có quyền hủy hoại bản thân (tựa gốc: I have the right to destroy myself) là tiểu thuyết đầu tay của Kim Young Ha, đã được xuất bản vào năm 1996, được chuyển thể thành phim đồng thời được dịch và xuất bản tại nhiều quốc gia như Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Quốc.
Để tìm đọc cuốn sách này:
Click vào đây |
0 nhận xét:
Đăng nhận xét